Các ngành công nghiệp đang cạnh tranh để trở thành đối tượng nhận được khoản chi tiêu quốc phòng dưới nước từ các quốc gia đối mặt với mối đe dọa hàng hải.
Các công ty quốc phòng, các start-up công nghệ và các nhà thầu hàng hải đang định vị mình để đón làn sóng chi tiêu mới từ chính phủ cho quốc phòng dưới nước, khi các quốc gia tăng cường nỗ lực bảo vệ cơ sở hạ tầng đáy biển và tài sản hàng hải của mình.
Chính phủ tăng cường củng cố phòng thủ ven biển
Những lo ngại ngày càng tăng về tính dễ bị tổn thương của các đường ống dưới biển, cáp và tuyến vận chuyển đã khiến các nhà hoạch định quân sự phải suy nghĩ lại về các chiến lược hải quân truyền thống.
Hoa Kỳ đã siết chặt các quy định về cáp dưới biển thông qua Ủy ban Truyền thông Liên bang, trong khi Vương quốc Anh nhấn mạnh an ninh hàng hải là ưu tiên cốt lõi trong đánh giá chiến lược mới nhất của mình. Các nhà phân tích cảnh báo rằng các phương pháp chống tàu ngầm truyền thống, vốn phụ thuộc vào máy bay tuần tra và tàu hộ tống, ngày càng tốn kém và không đủ để đối phó với mối đe dọa.
“Nỗ lực duy trì nhận thức tình huống dưới nước và theo dõi các mục tiêu khó nắm bắt không phải là điều mới mẻ với hải quân,” Sid Kaushal, chuyên gia chiến tranh hải quân tại Royal United Services Institute, cho biết. “Nhưng thách thức hiện nay là quy mô và cách mở rộng [năng lực] của bạn.”
Ngành công nghiệp nỗ lực nắm bắt cơ hội mới
Quy mô của thách thức đã tạo ra cơ hội cho các công ty quốc phòng và các nhóm công nghệ mới nổi.
Một sáng kiến trung tâm là “Digital Ocean Vision” của NATO, nhằm tích hợp vệ tinh, hệ thống tự động và phân tích tiên tiến để tăng cường giám sát và ra quyết định trên biển, cả trên và dưới mặt nước.
Fincantieri, nhà đóng tàu lớn nhất châu Âu, dự đoán thị trường quốc phòng và thương mại dưới nước toàn cầu sẽ tăng lên 50 tỷ euro mỗi năm, đồng thời dự báo bộ phận dưới nước của mình sẽ tăng gấp đôi quy mô lên 820 triệu euro vào năm 2027.
Brett Phaneuf, giám đốc điều hành của MSubs, nhấn mạnh vai trò của điện toán hiệu năng cao trong việc cho phép các thiết kế mới, nói rằng: “Sự phổ biến và giảm chi phí của các hệ thống điện toán hiệu năng cao tinh vi và vi điện tử... đã làm được những điều mà hàng thập kỷ qua không thể thực hiện được về thu nhỏ kích thước, sử dụng năng lượng và năng lực xử lý.”
MSubs gần đây đã phát triển Excalibur, một tàu ngầm không người lái dài 12 mét đang được thử nghiệm với Hải quân Hoàng gia. Tàu này, lớn nhất trong loại hình được Hải quân thử nghiệm, được thiết kế để thúc đẩy việc áp dụng các công nghệ tự động tiên tiến trên biển.
Tương tự, BAE Systems đã ra mắt Herne, một phương tiện dưới nước tự động dạng mô-đun với tầm hoạt động và thời gian hoạt động mở rộng.
“Bạn không thể có một ngày tồi tệ. Các hệ thống phải bền bỉ và hoạt động khi cần thiết.” Dave Quick, trưởng bộ phận vũ khí dưới nước tại BAE, cho biết.
Helsing, một công ty công nghệ quốc phòng châu Âu, đang xây dựng nhà máy tại Plymouth để sản xuất tàu lượn tự động SG-1 Fathom. Chúng được thiết kế để một người vận hành giám sát với chi phí chỉ bằng một phần nhỏ so với tuần tra có người lái. Các tàu lượn sử dụng AI này sẽ là một phần của dự án hợp tác với Blue Ocean Marine Tech Systems, Ocean Infinity và tập đoàn quốc phòng Qinetiq.
Công ty đặt mục tiêu triển khai hệ thống trong vòng 12 tháng.
Anduril có trụ sở tại Hoa Kỳ cũng đang mở rộng tại Vương quốc Anh. Công ty con tại Anh đã hợp tác với Sonardyne và Ultra Maritime để ra mắt Seabed Sentry, một hệ thống cảm biến tự động thời gian thực triển khai các “nút cảm biến” giá rẻ trên đáy biển.
Khi kết hợp với hệ thống sonar Sea Spear của Ultra, mạng lưới này hoạt động như một hàng rào kỹ thuật số để phát hiện các hoạt động dưới nước thù địch.
“Chúng tôi tập trung vào việc đưa một thứ gì đó xuống nước. Đó là cách tiếp cận phần mềm cho phần cứng.” Richard Drake, tổng giám đốc Anduril UK, phát biểu.
Thales, từ lâu đã cung cấp hệ thống sonar cho Hải quân Hoàng gia, đang theo đuổi Dự án Cabot. Dự án Cabot là sáng kiến kết hợp phương tiện có người lái và không người lái cho chiến tranh chống tàu ngầm.
Theo Ian McFarlane, giám đốc điều hành Thales, dự án không chỉ về cảm biến mà còn về quản lý lượng dữ liệu khổng lồ.
“Mục tiêu là xử lý dữ liệu thu thập được từ cảm biến và các phương tiện khác, cũng như chuyển đổi nó thành thông tin có thể sử dụng và trình bày theo cách mà mọi người hiểu được những gì họ đang nhìn thấy.”
Tin tức crypto của bạn xứng đáng được chú ý - KEY Difference Wire đưa bạn lên hơn 250 trang tin hàng đầu